Giải mã tiên tri “giáng bút”: Số mệnh ĐCS Trung Quốc từ 1933-2033

Giải mã tiên tri “giáng bút”: Số mệnh ĐCS Trung Quốc từ 1933-2033

Giải mã tiên tri “giáng bút”: Số mệnh ĐCS Trung Quốc từ 1933-2033

Giải mã tiên tri “giáng bút”: Số mệnh ĐCS Trung Quốc từ 1933-2033

Giải mã tiên tri “giáng bút”: Số mệnh ĐCS Trung Quốc từ 1933-2033
Giải mã tiên tri “giáng bút”: Số mệnh ĐCS Trung Quốc từ 1933-2033
Thứ sáu, 19-04-2024 06:30, (GMT+07:00)
Giải mã tiên tri “giáng bút”: Số mệnh ĐCS Trung Quốc từ 1933-2033
02-09-2022 13:59

Dân gian Trung Quốc có lưu truyền rất nhiều hình thức tiên tri (dự ngôn) khác nhau, trong đó có một loại được mô tả là “thỉnh Tiên giáng bút”. Đây là một phương pháp tiên đoán có nguồn gốc từ Đạo giáo, gọi là “phù kê” hoặc “phù loan”. Phương pháp này sau đó cũng lan ra các nước Á Đông, ở Việt Nam gọi là “giáng bút”, “cơ bút”.

 

Chim loan là một loại ‘Thần điểu’ trong thời cổ đại, tương truyền là sứ giả của Tây Vương Mẫu, chuyên truyền đạt thông tin cho Thần linh. Do đó, tên gọi “phù loan” còn mang ý nghĩa là truyền đạt chỉ dụ của Thần. 

 

Loại hình này cần có một người trung gian là người viết ra chỉ dụ của Thần, gọi là “loan sinh” hoặc “kê đồng”. “Loan sinh” và một trợ tá sẽ dùng chiếc bút gỗ hình chữ Y (được làm từ gỗ cây đào và gỗ cây liễu) viết lên mặt cát, sau đó một người khác đứng bên cạnh sẽ hô chữ đó lên và một người khác ghi chép lại thành câu từ mà người bình thường có thể đọc hiểu. Những bài tiên tri theo hình thức này được gọi là “kê văn”.

Group of model figures showing a worshipper. Wellcome L0004641.jpg
Hình mô tả một buổi 'thỉnh Tiên giáng bút'. (Wikimedia Commons/CC BY 4.0)
 

Trung Quốc có một “kê văn” vô cùng nổi tiếng vì độ chính xác. Nó được lưu truyền từ thời Dân Quốc, đương thời khi vừa xuất hiện đã gây xáo động. Đó là “Vũ Hầu bách niên kê” (bài kê văn 100 năm của Vũ Hầu).

 

Bài dự ngôn này ngôn từ dễ hiểu, hơn nữa các sự kiện trong đó được đưa ra theo dòng thời gian 100 năm, từ năm 1933 đến 2033. Cho nên chúng ta, những người sinh sống trong giai đoạn thời gian này, hoàn toàn có thể kiểm chứng độ chính xác của nó.

 

Ngoài ra, cuối cùng lời tiên tri này còn nhắc đến sự xuất hiện của Thánh nhân cứu thế và cách để tránh được kiếp nạn trước mắt. Còn 11 năm nữa là tới thời điểm kết thúc dự ngôn, chúng ta hãy cùng chờ đợi và kiểm chứng.

 

Trước tiên hãy nói về bối cảnh ra đời của bài dự ngôn “Vũ Hầu bách niên kê”. Một buổi tiên đoán “phù loan” đã được tổ chức tại lễ khai mạc năm 1933 của Học viện Đạo giáo Huyền Viên ở Phấn Lĩnh, Hong Kong. “Loan sinh” hôm đó tự xưng là Gia Cát Vũ Hầu.

 

Sau đó, bài dự ngôn này được đăng lên tờ Công thương Nhật báo của Hong Kong vào ngày 15 tháng 12 năm 1933 với tiêu đề “Kê ngữ Khổng Minh truyền xuống”. Khi đó cũng có không ít người cho rằng đây là giả, nhưng khi những sự kiện xảy ra trên thực tế, người ta lật lại bài báo đăng cuối năm 1933 thì ai nấy đều sững người.

 

Bài dự ngôn "Vũ Hầu bách niên kê" được đăng lên tờ Công thương Nhật báo của Hong Kong vào ngày 15 tháng 12 năm 1933 với tiêu đề “Kê ngữ Khổng Minh truyền xuống”. (Ảnh cắt từ tờ báo)
 

Bài kê văn này xuất hiện vào năm 1933, khi ấy Trung Quốc và Nhật Bản vẫn chưa nổ ra chiến tranh toàn diện, cũng chưa nổ ra Thế chiến II, nhưng trong đó đã nhắc đến hai sự kiện này. Vậy thì, vị Thánh nhân mà bài tiên tri này nhắc đến cũng như các sự kiện chưa xảy ra, rất đáng để chúng ta tham khảo.

 

Sau đây, chúng tôi sẽ giải nghĩa phần tiên tri từ sau Thế chiến II, đương nhiên đây có thể không phải là lời giải duy nhất:

 

Hồng nhật lạc hoàn bạch nhật lạc, ngũ tinh xán lạn văn minh quốc (紅日落完白日落,五星燦爛文明國): Mặt trời đỏ hết, mặt trời trắng lặn, 5 sao rực rỡ nước văn minh.

 

Câu này đề cập đến “hồng nhật”, “bạch nhật” và “ngũ tinh”. Khi kết hợp với bối cảnh diễn ra Thế chiến II, chúng ta rất dễ liên tưởng đến cảnh Nhật Bản – với quốc kỳ Mặt trời đỏ (hồng nhật) – bại trận sau thế chiến. Sau đó, vận số của Trung Hoa Dân Quốc cũng bắt đầu suy bại, lá cờ Mặt trời trắng (bạch nhật) trên nền trời xanh của Trung Hoa Dân Quốc cũng bị hạ xuống. Cuối cùng, lá cờ đỏ 5 ngôi sao (ngũ tinh) của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bắt đầu tung bay trên mảnh đất Trung Hoa – nơi có lịch sử văn minh xán lạn 5.000 năm.

Từ trên xuống dưới lần lượt là Húc Nhật Kỳ của Nhật Bản được dùng trong Thế chiến II, Thanh Thiên Bạch Nhật Mãn Địa Hồng Kỳ của Trung Hoa Dân Quốc, Ngũ Tinh Hồng Kỳ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. (Public Domain / Ảnh tổng hợp)
 

Trung sơn khuynh đồi thảo mộc ương, sài lang hổ báo đồng nhất hoạch (中山傾頹草木殃,豺狼虎豹同一鑊): Trung Sơn nghiêng đổ tai họa cỏ cây, sài lang hổ báo cùng một vạc.

 

Câu này là nói, cuối cùng lý tưởng của Tôn Trung Sơn đã không thể thực hiện ở Trung Quốc – núi Trung Sơn đổ sụp, cây cỏ gặp tai ương; và mảnh đất này trở thành nơi tập kết của đám người ác hung tàn – sài lang hổ báo.

 

Lưỡng trùng hỏa thổ thậm quang minh, sĩ nông công thương giai hữu tác (兩重火土甚光明,士農工商皆有作): Hai tầng lửa - đất thật sáng rực, sĩ nông công thương đều làm việc.

 

Sau khi hai bờ eo biển Đài Loan trải qua giao chiến vào thời kỳ đầu, Đài Loan và Trung Quốc lần lượt bước vào quỹ đạo, hai bờ bắt đầu thời đại xây dựng đất nước với sự tham gia của sĩ nông công thương.

 

Mộc tử dương hoa chân võ hưng, tiểu tiểu thiên cương hà túc luận (木子楊花真武興,小小天罡何足論): 

 

“Tiểu tiểu thiên cương” là chỉ Tưởng Giới Thạch tiếp tục gây dựng chính quyền ở Đài Loan. Khi đó mối quan hệ giữa hai bờ rất căng thẳng, Đài Loan phải phòng bị mọi thời khắc, lo ngại Trung Quốc ỷ lớn hiếp bé.

 

Cường phản nhược hề nhược phản cường, vương khí Kim Lăng ảm nhiên tận (強反弱兮弱反強,王氣金陵黯然盡): Mạnh thành yếu, yếu thành mạnh, vương khí Kim Lăng đã hết.

 

Câu này là nói, thời gian thay đổi thì tình thế cũng thay đổi, khi vương khí ở Kim Lăng (tên gọi cũ của Nam Kinh, từng là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc) đã tận, chính phủ Dân Quốc xưa kia vô cùng hùng mạnh thì nay đã suy yếu, Tưởng Giới Thạch chỉ đành rút quân về Đài Bắc, trấn thủ Đài Loan. Còn ở Trung Quốc Đại lục, chính quyền ĐCSTQ trước kia suýt đứng trên bờ vực thì nay lật ngược tình thế, nhân cơ hội trở nên cường đại.

Jiang Jieshi2.jpg
Tưởng Giới Thạch năm 1947. (Public Domain)
 

Cố đô Thiểm Bắc tụ anh hoa, văn vật y quan đầu thượng bạch (故都陝北聚英華,文物衣冠頭尚白): Cố đô Thiểm Bắc tụ anh hào, văn vật y quan sùng chuộng trắng.

 

ĐCSTQ xây dựng cơ đồ từ vùng Thiểm Bắc, người dân Diên An sùng bái Mao. Chữ đảng (黨) nguyên gốc gồm chữ thượng (尚) và hắc (黑), tức là sùng bái thứ đen tối, “thượng bạch” trong câu ý chỉ rằng tuy ĐCSTQ sùng bái thứ đen tối, nhưng lại dối trá lừa người, nói thành sùng bái sự trong sạch minh bạch, đó là nói đen thành trắng, nói trắng thành đen, bản chất làm điên đảo thị phi.

 

Khí vận nam phương xuất hào kiệt, khắc định Trung Nguyên mưu thống nhất (氣運南方出豪傑,克定中原謀統一): Vận phương Nam sinh hào kiệt, bình định Trung Nguyên mưu đồ thống nhất.

 

Giai nhân tuyệt sắc tự tây lai, lộng quyền thiết quốc khí kiêu dật (佳人絕色自西來,弄權竊國氣驕溢): Giai nhân tuyệt sắc từ phương Tây, lộng quyền trộm quốc kiêu ngạo ngang ngược.

 

Hồ thố thành quần công cẩu phanh, đảo loạn quân thần thùy dữ thất (狐兔成群功狗烹,倒亂君臣誰與匹): Cáo thỏ thành bầy chó bị mổ, điên đảo quân thần không ai sánh nổi.

 

Những câu trên là chỉ: Mao Trạch Đông sinh ra ở Hồ Nam, ông ta ôm hoài bão chí lớn muốn thống nhất Trung Nguyên. Sau đó, ở Trung Quốc lần lượt xuất hiện ‘tứ nhân bang’ (bè lũ bốn tên) kết bè kết phái muốn lật đổ triều đình và hết cuộc vận động chính trị này đến cuộc vận động chính trị khác để mưu sát công thần. Đồng thời, sự xa hoa dâm dật, điên đảo luân thường của ĐCSTQ đã làm cho văn hóa và tín ngưỡng của dân tộc Trung Hoa bại hoại tới mức cực độ, bất kỳ một vương triều nào trong lịch sử cũng không thể sánh bằng. 

Kinh phí để ĐCS Trung Quốc ‘tay trắng dựng cơ đồ’ đến từ đâu?
Một bức ảnh về Mao Trạch Đông, người giữ chức Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1935 cho đến khi ông qua đời năm 1976, do hãng thông tấn chính thống của Trung Quốc phát hành. Mao cưỡi ngựa trong chuyến đi được cho là đến phía bắc Thiểm Tây năm 1947 trong cuộc nội chiến với Quốc Dân Đảng. (/ AFP via Getty Images)
 

Thái dương trầm khứ vụ vân thu, vạn quốc đê đầu bái Di Lặc (太陽沉去霧雲收,萬國低頭拜彌勒): Mặt trời lặn mất mây mù tan, vạn quốc cúi đầu bái Di Lặc.

 

Mao Trạch Đông tự ví bản thân như Mặt trời đỏ (Thái dương), sau khi ông ta qua đời, lớp mây đen sương mù mà ông ta bao trùm lên toàn Trung Quốc cũng theo đó mà tiêu biến.

 

Sau thời của Mao, vị Thánh nhân cứu thế tên là Di Lặc sẽ truyền rộng Phật Pháp trên toàn thế giới, người ở các quốc gia sẽ dần dần được biết đến và kính bái Ngài, bắt đầu bước vào tu luyện. Di Lặc là tên gọi của vị Phật tương lai tới độ nhân được giảng trong Phật gia, Ngài còn được gọi là Chuyển Luân Thánh Vương.

 

Đoạn cuối bài tiên tri này còn có câu “Thử nhân nguyên thị tử vi tinh”, tức là người này vốn là sao Tử Vi. Do đó, chúng tôi cho rằng, Đức Phật Di Lặc và Tử Vi Thánh nhân được giảng trong Đạo gia là cùng một người.

 

Trị loạn tuần hoàn hữu định thời, căn thụ sinh chi duy tứ thất (治亂循環有定時,根樹生枝惟四七): Thịnh trị loạn lạc tuần hoàn theo thời đã định, gốc cây sinh cành tứ thất.

 

Câu này muốn nói, mọi sự hỗn loạn ở thế gian đều có định số, tức là đã được sắp đặt trước, bĩ cực thái lai. Hiện tại đã tới lúc chỉnh lý lại những những thứ hỗn loạn. Kết hợp với câu “vạn quốc đê đầu bái Di Lặc” ở trên, có thể đây là một chỉ dẫn rằng, Thánh nhân cứu người đã hạ thế, Ngài tới để quy chính lại những hiện tượng đạo đức bại hoại nơi thế gian.

 

Nếu vị Thánh nhân này đã hạ thế, vậy thì thời điểm Ngài xuất hiện là một manh mối rất quan trọng. Ý nghĩa bề mặt của “căn thụ sinh chi” là cây cối bén rễ đâm chồi nảy lộc, tượng trưng cho sự sản sinh của sinh mệnh, hoặc là dấu hiệu của một sự việc nào đó phát triển mạnh mẽ.

 

Khi liên tưởng một chút, chúng ta có thể hiểu như sau, khi Thánh nhân bắt đầu truyền Pháp truyền Đạo trong thời mạt thế hỗn loạn, cùng lúc đó nhân loại sẽ được ban cho cơ hội sống mới.

Đức Phật Di Lặc - vị Phật của tương lai sẽ hạ thế truyền Pháp độ nhân khi nhân loại ở thời mạt kiếp. (Pixabay)
 

Lão nhân tinh xuất hiện nam phương, kỷ niệm hóa vi công chính đường (老人星出現南方,紀念化為公正堂): Sao lão nhân xuất hiện ở phương Nam, kỷ niệm hóa thành công đường.

 

Câu này là nói, một nhân vật trường thọ đã qua đời, khi đó để kỷ niệm ông nên đã xây dựng nhà kỷ niệm, nhưng sau này nó sẽ trở thành công đường để nhân dân xét xử ông ta. Ở đây ám chỉ rằng, trong lòng lão bách tính vô cùng hiểu rõ những việc ông ta từng làm. 

 

Đối chiếu với lịch sử Trung Quốc, vị “lão nhân” trong câu này có thể là đang nói về cố lãnh đạo ĐCSTQ Đặng Tiểu Bình, người ra lệnh xả súng trấn áp sinh viên năm 1989. Đặng Tiểu Bình sinh ra tại Tứ Xuyên – một tỉnh ở tây nam Trung Quốc, ông mất năm 1997, hưởng thọ 93 tuổi; Nhà kỷ niệm Đặng Tiểu Bình tọa lạc tại thị trấn Hiệp Hưng, thành phố Quảng An, tỉnh Tứ Xuyên, được xây dựng vào năm 2001. 

 

Hình ảnh cựu lãnh đạo ĐCSTQ Đặng Tiểu Bình chụp năm 1979. (Public Domain)
 

Tây nam độc lập đàm hoa hiện, phi hổ tiềm long thế mạc đương (西南獨立曇花現,飛虎潛龍勢莫當): Tây Nam độc lập sớm tàn, hổ bay rồng lặn thế không chống nổi

 

Ở vùng tây nam, có một tỉnh muốn một mình một phách, có thể là ám chỉ khoảng thời gian Bạc Hy Lai (cựu chính trị gia Trung Quốc đã ngã ngựa, từng giữ chức ủy viên Bộ Chính trị) chấp chính ở Tứ Xuyên, ông ta đã lên kế hoạch đoạt quyền chính trị, tuy thế như hổ bay nhưng cuối cùng không được gì, giống như hoa quỳnh (đàm hoa) sớm nở tối tàn.

Bạc Hy Lai tại phiên tòa xét xử

Bạc Hy Lai tại phiên tòa xét xử. (Feng Li/Getty Images)
 

Liên quân đông chỉ đồng nhất khí, kiếm tiên hiệp sĩ hữu kỳ bí (聯軍東指同壹氣,劍仙俠士有奇秘): Liên quân đồng lòng chỉ phía Đông, hiệp sĩ kiếm Tiên có bí quyết thần kỳ.

 

Thủy năng khắc hỏa hỏa vô công, pháo hỏa phi cơ hà xứ tị (水能克火火無功,炮火飛機何處避): Thủy khắc Hỏa, Hỏa không công, pháo lửa máy bay tránh nơi nào?

 

Thử thị âm dương tạo hóa cơ, ý thổ phát minh thành tuyệt kỹ (此是陰陽造化機,意土發明成絕技): Đây là cỗ máy tạo hóa âm dương, đất ý phát minh trở thành tuyệt kỹ.

 

Liên quân ở đây là chỉ thế giới tự do đồng lòng, các hiệp sĩ có kiếm Tiên có bí quyết thần kỳ, giống như nước khắc lửa. Lửa - hỏa ở đây chỉ ĐCSTQ, với đặc trưng màu máu lửa, con rồng đỏ. Lửa thất bại (không công), nên dẫu là máy bay, pháo, tên lửa, cũng vô ích, không khởi tác dụng (không công). ĐCSTQ không có nơi nào trốn tránh được. Bởi đây là cỗ máy âm dương của tạo hóa. 

 

Hiện nay phong trào Tam thoái, thoái xuất các tổ chức đảng, đoàn, đội của ĐCSTQ đang lan mạnh trong cộng đồng người Trung Quốc. Trên thế giới, phong trào “Kết thúc ĐCSTQ” (End CCP) cũng đang nổi lên ở khắp nơi. Khi số lượng người hưởng ứng nhiều, thì ĐCSTQ tự sụp đổ, lúc đó ĐCSTQ mặc dù còn đầy đủ vũ khí, máy bay, pháo, tên lửa, nhưng vô ích (không công), và ĐCSTQ cũng không có nơi nào lẩn trốn.

Các tình nguyện viên cầm biểu ngữ kêu gọi chấm dứt Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Toronto, Canada vào ngày 10 và 11/10/2020. (NTD Television)

Các tình nguyện viên cầm biểu ngữ kêu gọi chấm dứt Đảng Cộng sản Trung Quốc, ở Toronto, Canada vào ngày 10 và 11/10/2020. (NTD Television)
 

Xưng hùng Đông Thổ vận kỷ chung, vật quy nguyên chủ phi kỳ sự (稱雄東土運己終,物歸原主非奇事): Xưng hùng Đông Thổ vận đã hết, vật quy về chủ cũ không phải là chuyện lạ.

 

Đông Thổ là một tên gọi khác của Trung Quốc, tức là vùng quốc thổ ở phía đông. Thế lực xưng hùng ở đây cuối cùng khí số sẽ tận, tức là những tháng ngày xưng vương xưng bá của ĐCSTQ ở Đông thổ sắp kết Thúc, đất nước sẽ “quy nguyên chủ”, quay trở về với chủ nhân đích thực của nó – nhân dân, và đây là điều tất yếu chứ không phải “kỳ sự” (chuyện lạ).

 

Thử thời quốc sỉ nhất tề tiêu, tứ hải thăng bình đa cát triệu (此時國恥一齊消,四海昇平多吉兆): Lúc này nỗi quốc nhục rửa sạch, bốn biển thanh bình nhiều điềm cát tường.

 

Đối với một quốc gia và một dân tộc, điều sỉ nhục nhất là văn hóa của dân tộc bị giẫm đạp và hạ thấp không ngừng, mà ĐCSTQ lại là chính quyền phá hoại nền văn hóa Trung Hoa mạnh mẽ nhất, thông qua các cuộc vận động chính trị như Đại cách mạng văn hóa, v.v. 

 

Nhưng tới thời này, đã đến lúc người dân Trung Quốc nhất tề rửa sạch “quốc sỉ” (nỗi nhục của quốc gia), nhân tâm quy chính, đạo đức nâng cao trở lại, tứ hải yên bình, sẽ xuất hiện nhiều “cát triệu” (điềm lành).

Hồng vệ binh đập phá tượng Phật trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa. (Ảnh tổng hợp)

Hồng vệ binh của ĐCSTQ đập phá tượng Phật trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa. (Ảnh tổng hợp)
 

Dị thuật sát nhân bất dụng đao, yển võ tu văn nhật nguyệt cao (異術殺人不用刀,偃武修文日月高): Dị thuật giết người không cần dao, buông võ tu sửa văn nhật nguyệt sáng tỏ.

 

Câu này là nói, cùng với việc nhân tâm quy chính, đạo đức thăng hoa, những kẻ ác, những kẻ làm việc xấu sẽ bị xử lý. Mặc dù lời tiên tri không nói rõ cách thức xử lý họ, nhưng sẽ “bất dụng đao” – không dùng đến vũ lực. Theo chúng tôi, rất có khả năng là thông qua dịch bệnh hoặc căn bệnh nào đó để đào thải những người này.

 

Đồng thời, lời tiên tri này cũng khuyên bảo con người rằng, chỉ có “yển võ tu văn”, tức là vứt bỏ bạo lực, đề cao lễ nhạc văn hóa, tu tâm hướng thiện thì mới có thể bình yên vô sự, sống không lo lắng, tránh xa tai họa.

 

Tam giáo Thánh nhân đồng trụ thế, quần ma yêu quái khởi năng đào (三教聖人同住世,群魔妖怪豈能逃): Thánh nhân Tam giáo cùng ở thế gian, bầy ma quỷ yêu quái sao chạy thoát được?

 

“Tam giáo Thánh nhân đồng trụ thế” là nói, Phật Di Lặc của Phật giáo, Tử Vi Thánh nhân của Đạo giáo hay Đấng Messiah trong tiên tri của Cơ Đốc giáo, tuy cách gọi khác nhau nhưng đều là một người – “Thánh nhân”.

 

Hơn nữa, trong cuộc đào thải này, không chỉ người xấu, mà cả những sinh mệnh tà ác – “quần ma yêu quái” ở các tầng trời cũng không thể trốn thoát.

 

Khả thán thảo đầu thiêu bất tận, dã ngoại xuân phong xuy hựu sinh (可嘆草頭燒不盡,野外春風吹又生): Đáng thương thảo đầu thiêu không hết, dã ngoại đón gió xuân bừng sinh khí.

 

Trong tiếng Trung, “thảo đầu” là chữ “Cộng” (共) trong ĐCSTQ, chế độ này những tưởng rằng có thể dùng bạo lực để chiến thắng “Thánh nhân”, nhưng cuối cùng nhận lại chỉ có thể là thất bại. 

 

Không những vậy, khi vị Thánh nhân ấy mang Phật Pháp truyền ra nước ngoài (dã ngoại), sẽ giống như gió xuân thổi khắp địa cầu, hết thảy sinh mệnh bén rễ đâm chồi, bừng bừng sức sống.

 

Quan trung trượng kiếm trừ gian nịnh, bạch đầu biến tác xích đầu nhân (官中仗劍除奸佞,白頭變作赤頭人): Quan trường trượng kiếm trảm gian nịnh, đầu trắng biến thành đầu đỏ.

 

Câu này là nói, những kẻ gian nịnh trong chốn quan trường sẽ bị trừ bỏ. “Bạch đầu” nghĩa là những người đó đã cao tuổi, đứng trong hàng bô lão, biến thành “xích đầu” (đầu đỏ) tức là sẽ bị trượng kiếm xử trảm, tương đương với việc bị luận tội và xử trảm.

Búa thẩm phán. (Joe Raedle/Getty Images)
 

Điền gian tái xuất hoa thịnh đốn, tạo phúc nhân quần thị chân mệnh (田間再出華盛頓,造福人群是真命): Chốn dân gian lại xuất hiện Washington, là chân mệnh thiên tử tạo phúc cho dân chúng.

 

Thử nhân nguyên thị tử vi tinh, định quốc an dân công đức thịnh (此人原是紫微星,定國安民功德盛): Người này vốn là sao Tử Vi, định quốc an dân công đức lớn.

 

Chấp trung thủ nhất định càn khôn, nguy nguy đãng đãng hi nghiêu thuấn (執中守一定乾坤,巍巍蕩蕩希堯舜): Trung dung, nắm chắc Đạo, định lại càn khôn, vĩ đại mênh mông như vua Nghiêu vua Thuấn.

 

Những câu trên là nói về vị Thánh nhân tới nhân gian cứu thế, “điền gian” là chỉ nhân gian. Còn “hoa thịnh đốn” là phiên âm Hán - Việt tên gọi của Washington trong tiếng Trung, hình ảnh của ông được in trên tờ 1 USD (tiếng Trung gọi là 1 Mỹ nguyên), chỗ này mang ý nghĩa “nhất nguyên phục thủy”, tức là sự khởi đầu mới tươi đẹp. Thánh nhân đạo đức cao thượng, không cầu tư lợi, Ngài thực sự tới thế gian để tạo phúc cho nhân loại. 

 

Ngài chính là “Tử Vi Thánh nhân”, chỉ có uy đức hồng đại của Ngài mới có thể định quốc an dân. Ngài mang theo tấm lòng công bằng công chính để định lại càn khôn (đất trời), quy chính hỗn loạn. Đức hạnh của Ngài bao la ngút trời, sánh ngang với Đế Nghiêu và Đế Thuấn – hai bậc đế vương nhân từ, đức độ trong lịch sử Trung Hoa.

US one dollar bill, obverse, series 2009.jpg
Mặt trước tờ 1 USD in chân dung George Washington, tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. (Public Domain)
 

Bách niên thế sự bất thắng bi, thành khủng chư quân bất cập kiến (百年世事不勝悲,誠恐諸君不及見): Thế sự trăm năm vô cùng bi thảm, chỉ e các anh không kịp thấy.

 

Hảo tu nhân quả đãi lai sinh, tướng tướng công hầu tiền thế thiện (好修因果待來生,將相公侯前世善): Tu thiện có nhân quả tốt chờ đời sau, công hầu khanh tướng đều do đời trước tu thiện.

 

Bài tiên tri này ra đời vào năm 1933, cho nên những thế sự xảy ra trong trăm năm này, đối với nhưng người sống vào thời đó nhưng không thể đợi được tới thời Thánh nhân hạ phàm, há chẳng phải bi ai?

 

Nhưng ở đây cũng đề cập đến cách để có thể gặp được Ngài trong kiếp lai sinh, đó là tu sửa bản thân cho tốt, tu ‘nhân’ lành để đắc được ‘quả’ ngọt; cũng giống như việc đời này được làm quan làm tướng là bởi đời trước đã làm nhiều việc thiện.

 

Hoặc thị tinh thìn hạ giới lai, hoặc thị Thần Tiên diêu nhất biến (或是星辰下界來,或是神仙搖一變): Hoặc là tinh tú hạ phàm, hoặc là Thần Tiên biến hóa.

 

Hoặc thị tiền sinh nhân quả đại, đương nhiên chuyển thế công danh hiển (或是前生因果大,當然轉世功名顯): Hoặc là nhân quả đời trước, đương nhiên chuyển sinh công danh hiển hách.

 

Những người có cơ duyên gặp Thánh nhân, họ hoặc là Thần Tiên ở trên Thiên giới mang theo sứ mệnh chuyển sinh xuống thế gian làm người, hoặc là những người đời trước làm được việc đại thiện.

Bài tiên tri nói rằng, con người phải tìm tới pháp môn tốt mà cần cù tu luyện, tu sửa chính mình, vì một tương lai tốt đẹp. Ảnh trên là hình một người đang ngồi thiền. (Minghui)
 

Sơn nhân phục đối chư quân đàm, tục thượng tiền văn đồng nhất tuyến (山人復對諸君談,續上前文同一線): Người trong núi lại đàm luận với các vị, tiếp nối với bài văn trên.

 

Thiên niên vạn tải sự du du, tung sử Thần Tiên nạn dự toán (千年萬載事悠悠,縱使神仙難預算): Sự việc ngàn vạn năm dằng dặc, cho dù là Thần Tiên cũng khó biết trước.

 

Lược tương nhất nhị thuyết quân tri, thù đáp chư quân hoàn liễu nguyện (略將一二說君知,酬答諸君還了願): Chỉ nói một hai điều cho các vị biết, báo đáp các vị, hoàn thành nguyện.

 

Sơn nhân cáo biệt phản sơn xuyên, lai niên tái hội chư quân diện (山人告別返山川,來年再會諸君面): Người trong núi xin cáo biệt trở về núi sông, năm sau lại gặp các vị.

 

Chư quân các tự cố tiền trình, hảo hướng linh sơn cần tu luyện (諸君各自顧前程,好向靈山勤修煉): Các vị tự mình chiếu cố tương lai, hảo hướng núi linh cần cù tu luyện.

 

Ở đoạn kết, người truyền lại bài “kê văn” trên muốn nhắc nhở rằng: Vạn sự hàng ngàn năm qua, cho dù là Thần Tiên thì cũng khó mà biết hết tất cả. Nay ta chỉ nói giản lược cho các vị biết một, hai phần coi như đền đáp, hoàn thành nguyện này xong thì ta sẽ cáo biệt quay trở về núi, nhưng tương lai sẽ quay trở lại cùng các vị tương kiến. Bản thân mỗi người các vị phải chăm lo cho tương lai của chính mình, cũng duy chỉ có cách là tìm tới pháp môn tốt mà cần cù tu luyện.

 

Tới đây, chúng ta có thể thấy một điểm chung trong rất nhiều bài tiên tri: Hiện nay là một thời kỳ phi tầm thường, và Thánh nhân đã xuất hiện. Nhưng bài “kê văn” trên còn nói thẳng, nói rõ rằng, con người cần phải “tu luyện”.

 

Hy vọng những giải nghĩa trên có thể mang tới cho quý độc giả một chút gợi mở, sớm ngày tìm được Thánh nhân và pháp môn tu luyện để có một tương lai tốt đẹp. Như bài dự ngôn trên đã nói, dù sao thì chúng ta cũng đang sống trong thời kỳ Thánh nhân truyền Pháp độ nhân.

 

Nam Phương

Nguồn Vườn văn sử

Đăng theo NTDVN

 

Các bài khác
Bài Xem Nhiều Nhất
BÍ ẨN
SỰ THẬT
CỬU TỰ CHÂN NGÔN
VIDEO
ẢNH ĐẸP